Hình ảnh Phát Diệm một ngày đẹp trời

Phát Diệm – một ngôi làng tân bồi nơi vùng Kim Sơn, Ninh Bình, do Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đặt tên từ năm 1829 – vốn mang ý nghĩa “phát ra vẻ đẹp”. “Lời tiên tri” ẩn trong tên gọi ấy đã trở thành hiện thực khi cha Phêrô Trần Lục, quen gọi là Cụ Sáu, được bổ nhiệm làm cha xứ Phát Diệm (1865–1899). Suốt 34 năm miệt mài trong cương vị mục tử, với tấm lòng quảng đại và tầm nhìn kiến tạo vượt thời gian, ngài đã biến vùng đất phù sa sình lầy hoang sơ thành một quần thể nhà thờ độc đáo, nơi từng đường nét đều phảng phất linh hồn văn hóa Việt.

Trải qua hơn một thế kỷ thăng trầm, bất chấp mưa nắng và bom đạn, công trình của Cụ Sáu vẫn hiên ngang tỏa sáng, trở thành chứng tích bất diệt của đức tin Công giáo và văn hóa Việt, không ngừng cuốn hút bước chân lữ khách thập phương. Nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh Cụ Sáu (1825–2025), quần thể nhà thờ Phát Diệm được chỉnh trang, càng thêm rạng ngời: mái ngói nhà thờ chính tòa nay mang một màu đỏ thắm trên nền trời trong xanh; hồ nước phẳng lặng vẫn in bóng tượng Chúa Kitô Vua uy nghi giữa không gian khoáng đạt; những tầng mái cong mềm mại từ Phương Đình như những con thuyền lướt sóng; tường gạch cũ kỹ được thay bằng tường đá kiên cố, đồng bộ và khang trang. Trong nắng sớm mai, trời xanh mây trắng bồng bềnh, tam quan uy nghi hiện ra huyền ảo như chốn bồng lai tiên cảnh.

Ai từng sống giữa phố phường chật hẹp, ít có dịp ngước nhìn bầu trời thanh cao hay lắng nghe tiếng chim hót ban mai, hẳn sẽ tìm thấy nơi Phát Diệm một trải nghiệm khác lạ: tâm hồn bất chợt lắng lại, nhẹ nhõm, như được đắm mình trong cuộc giao hòa của đất trời và con người dưới vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.

Quả thật, Phát Diệm không chỉ là một địa danh, mà còn là nơi phát ra vẻ đẹp – vẻ đẹp của thiên nhiên, của kiến trúc, của văn hóa tâm linh, và trên hết là vẻ đẹp của đức tin sống động qua bao thế hệ. Chỉ e rằng khi chính những người con Phát Diệm cất lời về quê hương mình, khó tránh khỏi cảm xúc chủ quan. Vì thế, nhân dịp trọng đại này, xin gửi đến quý độc giả, cách riêng anh chị em Phát Diệm xa quê, một vài hình ảnh Phát Diệm một ngày đẹp trời, kèm đôi tâm tình trích dịch từ tác phẩm Cụ Sáu – Cha xứ Phát Diệm, Khâm sai Tuyên phủ sứ của Đức Ông Olichon (1941), như một góc nhìn khách quan từ người ngoài, thậm chí từ chính một tác giả phương Tây.
Đình Chẩn
Xem thêm hình
“Cuối cùng, đây là Phát Diệm với những con sông hoặc kênh tưới tiêu, mà các con đường phân chia đất đai sình lầy và màu mỡ này thành các dải đất rộng ba trăm mét và dài mười hai kilômét. Mỗi dải đất này là một làng quê.
Vẻ đẹp của vùng đất đầm lầy này, đôi khi gợi nhớ đến những hồ nước ở Pháp: Cơn sốt mê man của vùng Aigues-Mortes, sự yên bình của vùng Sologne, vẻ lãng mạn khó quên của Ermenonville... tôi không ngờ lại có thể gặp lại ở đây cách nước Pháp ba nghìn dặm.
Nhưng điều bất ngờ ập xuống chúng tôi như một khối đá; sau một hồ nước nhỏ, cuối cùng là ngôi đền trong mơ của tôi: cao vút vươn lên bầu trời, ngôi đền này thực ra là nhà thờ chính tòa Phát Diệm, do Cha Sáu xây dựng vào thế kỷ trước. Cụ là một người An Nam đã kết hợp phong cách quê hương với nhu cầu không gian và sự nâng cao của nơi thờ phượng Kitô giáo.
Cũng như tại Florence[1], nơi nhà nguyện Rửa Tội che khuất một phần mặt tiền nhà thờ chính, ở đây một tháp chuông[2], rộng như chính nhà thờ, cũng được xây dựng ở tiền cảnh. Tháp chứa quả chuông[3] lớn nhất Đông Dương. Dưới ba mái vòm của tháp chuông, người ta có thể thấy các phiến đá cao, màu sẫm và bóng loáng. Đó là những chiếc sập kiểu đình chùa An Nam, nơi các quan lại có thể ngồi uống chè, vừa trò chuyện trên sập đá, vừa nghe thánh lễ từ xa. Thực ra, do Cha Sáu không muốn loại bỏ ngay thói quen của các bổn đạo mới, không làm cho họ cảm thấy lạ lẫm, nhưng ngài đã biết cách khiến họ yêu mến sự khiêm nhường của Đạo Chúa đến mức không một quan lại Công giáo nào muốn tận dụng điều kiện này. Thậm chí, quan lại quyền lực nhất trong số họ cũng ngồi tham dự thánh lễ cách khiêm tốn ngay trong nhà thờ.
Phía sau tháp chuông, và theo cùng một trật tự, là nhà thờ chính tòa với năm cửa chính, những tác phẩm điêu khắc trên cửa chính thể hiện những minh họa thú vị về sự kết hợp hài hòa hai phong cách. Bốn cửa hai bên thể hiện bức rèm với những nét buông xuống, trong khi cửa chính giữa là sự pha trộn các họa tiết hoa văn theo phong cách Á Đông và Gothic. Hoa sen, cây cau, cây chuối đan xen với các cảnh Kinh Thánh, nơi con bò có sừng như con trâu, các nhân vật vừa có nét giống người nguyên thủy vừa mang nét những gương mặt xứ Phật giáo. Hơn nữa, các thiên thần trên mái nhà thờ có gương mặt phẳng phiu và an nhiên giống như các bức tượng Á Đông.
Nội thất nhà thờ lớn mang phong cách cổ điển với gian giữa và ba hàng cột đối xứng hai bên cánh[4]. Nhưng điều đặc biệt nhất là mười sáu cột ở giữa, mỗi cột cao mười ba mét[5] và đường kính một mét, làm từ một thân cây gỗ lim, dày đều từ chân cột đến đỉnh cột. Cây gỗ nào có thể cung cấp những thân cây thẳng tắp và cao đến mức như thế?
Nhìn sâu vào bên trong, bàn thờ chính hiện lên uy nghi với lớp sơn son rực rỡ, nằm dưới một “cơn mưa” ánh vàng chạm trổ —lớp lớp sơn son thếp vàng rực sáng, hội tụ thành một khối lấp lánh. Từ cuối các gian hai bên nhìn vào, bàn thờ ấy hiện ra như một vết thương rực cháy...
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ Maria, có lẽ trong cả thế giới này, không đâu các Ngài có được những nguyện đường rực rỡ hơn nơi đây: những gian thánh thất nối tiếp nhau, mỗi gian lại chói lòa hơn gian trước.
Nhưng phép màu nào đã giúp cho mảnh đất tân bồi còn yếu này có thể chịu đựng được công trình đồ sộ với những mái vòm, tháp chuông như thế?
Ngày xưa, những người xây đền thờ thường phải ký hợp đồng với quỷ thần. Còn ở đây cha Sáu chỉ ký kết với thời gian. Nếu có phép lạ, đó chính là phép lạ của lòng kiên trì bền bỉ. Trước khi viên đá đầu tiên được đặt xuống, tức là trước năm 1875, người ta đã bắt đầu đóng các cọc gỗ xuống lòng sình lầy, cọc này nối tiếp cọc kia. Và cứ thế, cọc cứ lún xuống, người ta tiếp tục đóng thêm để chúng càng lún sâu hơn. Sau đó, khi cọc xuống sâu khoảng ba mươi mét, cọc gỗ nặng cuối cùng cũng ngừng lún rõ rệt; tuy vậy, người ta vẫn tiếp tục, và ở độ sâu ba mươi hai hoặc ba mươi lăm mét, cọc hoàn toàn ngừng lại, tạo thành một nền móng vững chắc, một nền móng không hề suy suyển. Đây là công trình của người khổng lồ...!
Trên rừng cọc đã vùi lấp, người ta cho đổ xuống từng khối đá mạt, và trên những khối đá này, người ta cho đàn trâu liên tục trần đi trần lại — sức nặng của chúng khiến đá lún sâu vào lớp bùn nhão. Qua năm tháng, trâu và đá đã nén mặt đất nên rắn chắc đến mức cuối cùng người ta có thể, từ năm 1878 đến năm 1895 — năm diễn ra thánh lễ đầu tiên — dựng lên nhà thờ chính tòa cùng với năm nhà nguyện bao quanh như những vệ tinh thiêng liêng.
Những ngôi nhà nguyện này trông như những nữ tu nhỏ, những nữ tu tuyệt vời nép mình bên cạnh Mẹ Bề trên.
Ngôi nhà nguyện nằm hơi chếch phía sau nhà thờ chính tòa, được dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, có hai tháp nhỏ trông khoáng đạt với dáng vẻ lạ kỳ[6]. Trong khi đó, nội thất nhà nguyện dâng kính thánh Phêrô thực sự làm say lòng người, với những cột gỗ mít nhỏ nhắn, chạm trổ tinh xảo và một gam màu nâu ấm áp, dịu dàng, trông thật mãn nhãn. Nhà nguyện này được dùng để giải tội, và các tòa giải tội thì gần như đã bị tháo tung ra... bởi các hối nhân nam nữ, trong sự nôn nóng muốn vượt qua nhau, đã bám víu vào vách tường và cuối cùng làm bung cả các mảnh gỗ ra...
Còn nhà nguyện Thánh Giuse, với các cột được chạm khắc bằng gỗ lim trai, là cả một thế giới như được trang hoàng thêu thùa lộng lẫy. Quả thật, nơi đây chỉ toàn thấy rèm buông, diềm uốn, những cánh hoa hồng và những chùm tua rủ xuống từ vòm trần. Loại gỗ này mang đậm sắc nâu hạt dẻ, mềm mại như ren, dịu dàng như lớp viền và đung đưa như màn gió. Đó thực sự như thứ vải thô đã hóa thành đăng ten quý phái.
Nhưng nhà nguyện Thánh Tâm Chúa Giêsu mới thực sự như cô tiên bé nhỏ. Ẩn sau mặt tiền được trát vữa, một nét đặc trưng khiến nhà nguyện thanh thoát ấy mang dáng vẻ bình dị như các ngôi chùa luôn được quét vôi trắng, một mặt tiền thứ hai hiện ra mới thực tinh tế. Mặt tiền này được làm bằng gỗ lim[7], với những hoa văn chạm bong cực kỳ sắc xảo: những tán lá mềm mại, những bông sen thanh thoát, những dây leo uốn lượn — tất cả toát ra vẻ kiều diễm tinh tế của vùng viễn Đông.
Còn bên trong thì sao ?
Nội thất nhà nguyện này cũng toàn bằng gỗ lim, với sắc nâu nhung mượt như các nhà nguyện khác; nhưng nó mang một vẻ duyên dáng của hộp gỗ sơn mài Nhật Bản. Đáng tiếc thay, ảnh chụp không thể nào lột tả được vẻ quyến rũ đan xen nơi những bông cúc, những trái nho, những dây uốn lượn và những nét chạm kiểu vỏ sò —phô diễn tất cả nghệ thuật điêu khắc uyển chuyển của vùng Viễn Đông này.
Rời khỏi nhà nguyện, bước ra ngoài, ta lại bắt gặp những đường nét hùng vĩ của nhà thờ chính tòa. Dưới chân giáo đường có những cây vải thiều[8], loài cây tuyệt đẹp của Nhật Bản — với tán lá như làn khói hương dày đặc…
Xa xa hơn một chút, ta bắt gặp Chủng viện, rồi một khu vườn nhà xứ mát mẻ... và cả một tu viện, nơi các nữ tu Dòng Đức Bà Truyền Giáo chăm sóc cho người khiếm thính — những tâm hồn tận tụy, cao quý và đơn sơ như những bông huệ ngoài đồng…
Nhưng trái tim chúng tôi hướng về các ngài — những nhà nguyện đã vén mở cho chúng tôi thấy: phong cách kiến trúc thánh đường nơi miền đất này lẽ ra phải như thế nào. Chỉ riêng các ngài ở trong chân lý. Các ngài không ép buộc họa tiết kiểu acanthe hay những ngọn tháp Gothic phải vượt đại dương đến tận đây. Một cách khôn ngoan và hài hòa, các ngài đã cho nở trên mặt tiền nhà thờ lớn những bông sen và cây cau thân quen; các thiên thần của các ngài mang khuôn mặt rạng ngời như những vị Bồ Tát hoan hỷ dưới bầu trời ngọc bích xứ Bắc Kỳ. [9]
Người ta hiểu được danh tiếng của cha xứ Phát Diệm ngày càng lớn mạnh nhờ vào những kỳ công mà ngài đã thực hiện. Hoàng đế Tự Đức giờ đây tỏ lòng kính trọng cụ qua những biểu tượng tôn vinh. Trên những huân chương vàng mà nhà vua gửi tặng, người ta có thể đọc được những lời châm ngôn theo phong cách An Nam như sau:
Lời cụ gieo rắc lòng tin.
Cụ đem lại sự bình an.
Cụ là người tài giỏi trong việc giáo dục dân chúng
và mang lại hạnh phúc cho trăm họ.
Cụ là người ngay thẳng tuyệt vời.
Chính phủ Pháp cũng vinh dự trao cho cha xứ Phát Diệm thánh giá kỵ sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh[10].
Đây mới chỉ là khởi đầu. Thời khắc cha Sáu từ danh tiếng bước lên vinh quang sẽ không còn xa. Cơ hội đến với cụ trong những biến động xảy ra sau cái chết của Tự Đức và sự thay đổi triều đại."
(trích dịch từ tác phẩm Cụ Sáu – Cha xứ Phát Diệm, Khâm sai Tuyên phủ sứ của Đức Ông Olichon (1941), Đình Chẩn chuyển ngữ).
[1] Tỉnh Firenze miền Trung nước Ý, với các nhà thờ và các danh họa, điêu khắc gia nổi tiếng bậc nhất thế giới như Michel Angelo. [Người dịch chú thích thêm]
[2] Quen gọi là Phương Đình, vì kích thước gần như vuông: Cao 25m, rộng 24 m và sâu 17m. [Người dịch chú thích thêm]
[3] Quả chuông nam, cao 1,9 m, nặng gần 2 tấn. [Người dịch chú thích thêm]
[4] Nhà thờ chính tòa có sáu hàng cột gỗ lim. [Người dịch chú thích thêm]
[5] Theo số liệu chính thức, mỗi cột cao 11,10 m. [Người dịch chú thích thêm]
[6] Hai tháp nhỏ nhà thờ đá mang dáng dấp tháp Bút ở Đền Ngọc Sơn-Hà Nội. [Người dịch chú thích thêm]
[7] Nhà nguyện này được làm bằng gỗ lim mật, một loại lim đặc biệt nhất, trông như màu mật. Cụ Sáu đã chọn loại gỗ cao quý nhất này để dâng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. [Người dịch chú thích thêm].
[8] Có lẽ tác giả nhầm với hàng nhãn. Theo người dịch được biết, xung quanh nhà thờ chính tòa xưa nay chưa trồng vải, mà trồng nhãn. [Người dịch chú thích thêm].
[9] Yvonne Sohultz, l’illustration du 9 novembre 1929.
[10] Thánh giá kỵ sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh (la croix de chevalier de la Légion d’Honneur). Đây là huân chương bậc ngũ đẳng trong năm bậc cao quý. [Người dịch chú thích thêm]